Khu di tích Nguyễn Du bào gồm một quần thể các di tích của dòng họ trên xã Tiên Điền. Khu di tích này trải dài trên địa bàn toàn xã. Trên 400 năm, họ Nguyễn sống ở Tiên Điền, con cháu đã xây dựng một số đền, chùa, văn bia, cầu cống, đình làng… Đến nay phần lớn đã trở thành phế tích. Năm 1965, kỉ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du, Bộ Văn hóa Thông tin và tỉnh Hà Tĩnh đã tiến hành quy hoạch và bảo vệ một số di tích còn lại. Thành lập khu lưu niệm Nguyễn Du, phục vụ cho công tác nghiên cứu, tham quan học tập. Các di tích còn lại:
Đàn tế và bia đá
Nguyễn Quỳnh là ông nội Nguyễn Du. Ông có 5 vợ và 9 con (6 trai, 3 gái). Trong số 6 người con trai thì có 3 người con đậu đại khoa và làm quan to là Nguyễn Huệ, Nguyễn Nghiễm và Nguyễn Trọng. Năm 1762 sau khi nhận chức Tể tướng được bốn tháng, để tưởng nhớ công ơn cha mẹ. Nguyễn Nghiễm cùng em là Nguyễn Trọng và con cháu lập đàn tế, dựng bia đá tại khu vườn tưởng niệm của dòng họ. Hàng năm đến ngày giỗ, lễ tết, con cháu làm lễ dâng hương tri ân cha mẹ, ông bà, tổ tiên.
Bia dựng vào mùa Thu năm Nhâm Ngọ (1762). Chất liệu bằng gạch đá và đá thanh. Tháng 7 năm 1954, giặc Pháp bỏ bom làm nền bìa sạt lở ¼. Sau đó con cháu tu sửa lại.
Trên bia khắc các dòng chữ Hán như sau:
Mặt trước: Cảnh Hưng vạn bia (Bia xây dựng triều vua Cảnh Hưng.)
Phong tặng Lễ Bộ Thượng Thư Thái Bảo Nhuận Quận công Nguyễn tiên sinh
Phong tặng Nhất phẩm thu nhân gia phong Quận phu nhân Phan Thị.
Nghĩa là:
Phong tặng ông Nguyễn Quỳnh chức Lễ Bộ Thượng Thư, hàm Thái Bảo, tước Nhuận Quận công.
Phong tặng bà Phan Thị đệ nhất phu nhân và được học bổng lộc như Quận công
Mặt sau: Phía trên : Hồng Nguyên tuấn lưu (Nguồn lớn chảy mạnh)
Giữa khắc chữ: “Phúc” nghĩa là: Ông bà để lại phúc đức lớn cho con cháu về sau.
Hai bên khắc đôi câu đối:
Niệm thời truy nhật nguyệt
Truyền ngư tại giang sơn
Nghĩa là:
Tưởng niệm cha mẹ theo năm tháng
Còn giang sơn còn truyền tụng
Đàn tế và bia đá là di tích nguyên gốc về hình dáng, chất liệu. Đá làm bia do Nguyễn Nghiễm lất từ Thanh Hóa về. Nguyễn Khản viết chữ, thợ khắc chữ người Thanh Hóa. Khi lập đàn tế dựng bia Nguyễn Nghiễm cho xây dựng cạnh 3 cây cổ thụ Nguyễn Quỳnh trồng.
Cây cổ thụ do ông Nguyễn Quỳnh trồng
Ông Nguyễn Quỳnh là người giỏi chữ hay đọc sách, tinh thông lý số, giỏi về kinh dịch… Việc thi cử không được hành thông, chỉ chuyên tâm đọc sách, dạy con cái học hàn, chỉ mong muốn con mình thành danh, làm vẻ vang cho gia đình và dòng họ. Ông soạn 3 bộ sách bàn về kinh dịch và những việc chiêm nghiệm được trong đời.
Sinh thời ông trông 3 cây cổ thụ, một cây Muỗm ( Xoài), một cây Bồ Lỗ (Cây Nóng), một cây Rói (bị bão đổ năm 1976), để sau này mỗi lần 3 người con: Nguyễn Huệ, Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Trọng, khi về thăm cha có chỗ cột ngựa. Tương truyền vì tinh thông lý số, giỏi tính toán chuyện hậu thế, ông biết trong 6 người con trai sẽ có 3 người đậu đạt làm quan nên ông trồng 3 cây này. Những câu này đến nay đã có trên 300 tuổi.
Nhà tư văn
Theo Nghi Xuân địa chí thì nhà Tư Văn từ đời Long Đức triều Lê (Lê Nhân Tông 1732-1735) về trước gọi là Văn Thánh, hàng huyện thờ Khổng Tử. Lúc này, Văn Thánh thuộc về dòng họ Ngụy ở Xuân Viên, một dòng học phát đạt nhất huyện Nghi Xuân. Đến đời Vĩnh Hữu Lê Y Tông (1735-1740) dòng họ Nguyễn Tiên Điền nổi lên, thì Văn Thánh lại thuộc Quận công Nguyễn Nghiễm cho đưa về dựng tại khu vườn của ông tổ họ Nguyễn. Theo truyền thống tốt đẹp của dòng họ về mặt văn chương, ngôi nhà này là nơi các tao nhân mặc khách bình thơ, bình văn. Những người vào đây đều là “ Phượng trì long bảng” tức từ Tú tài trở lên. Sau khi bình thơ, bình văn xong, các cụ ngồi xuống nhà Hạ Điền uống trà, uống rượu, nghe ngâm thơ Nôm, hát ả Đào (ca trù). Năm Tân Hợi (1971) anh ruột Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh chống lại nhà Tây Sơn. Hiệp Trấn Nghệ An Nguyễn Quang Dụ đem quân giết Nguyễn Quỳnh , phong hỏa đốt cháy dinh điền họ Nguyễn và làng Tiên Điền. Nhà Tư Văn bị cháy chỉ còn lại gian miếu thờ Thánh Hiền. Sau ít năm anh Nguyễn Du là Nguyễn Nể bỏ tiền ra cho sửa sang lại. Nhân đó đề ra lệ: Trong huyện hạc con cháu thuộc dòng dõi khoa bảng nộp 3 tiền; những người dân “Bạch Đinh” nhưng có biết chữ nộp 10 tiền. Mỗi năm có hai kỳ lễ tế hàng huyện giao Lý Dịch xã Tiên Điền xôi gà làm cúng tế.
Nhà Tư Văn nơi thờ Khổng Tử cũng là nơi thờ “Đạo học” của huyện Nghi Xuân. Về sau Hội Tư Văn xây thêm điện thờ các vị đậu đạt cao trong huyện.
Đền thờ Nguyễn Nghiễm
Đền thờ Nguyễn Nghiễm ở thôn Bảo Kê, xã Tiên Điền. Khi còn sống ông đặt ruộng cúng và xây sẵn đền thờ ở mặt sông. Sau khi ông mất triều đình phong “Thượng Đẳng Tôn Thần”, Huân Du Đô Hiến Đại Vương, hàng năm Quốc gia làm tế lễ . Lại giao cho 4 xã chăm sóc hương khói. Ngày sinh, ngày giỗ của ông có cả xã Uy Viễn cùng tế lễ. Đền có 3 tấm biển lớn, một khắc 4 chữ “Phúc lý vĩnh tuy” (Phúc ấm lâu dài) do tự tay chúa Trịnh viết. Một tấm khắc 4 chữ: “Dịch tế thư hương” (dòng thư hương đời nối đời) do Đức Bảo sứ thần nhà Thanh đề tặng. Một biển khắc 4 chữ “Quang tiền du hậu” ( Rạng rỡ thế hệ trước để lại phúc ấm cho thế hệ sau) biển này do Tô Kính người Viễn Đông đề tặng. Đền còn có đôi câu đối:
Lưỡng triều danh Tể Tướng
Nhất thế đại nho sư
Nghĩa là:
Nhơ sư cả nước vang danh hiệu
Tể tưởng hai triều rạng tiếng tăm
Đền kiến trúc theo lỗi chữ nhị (=), lương long tử vi, đây là lối kiến trúc thời hậu Lễ. Năm 1954 bom Pháp đánh trúng nhà thờ, thượng điện bị hỏng hoàn toàn, đồ tế khí mất mát hư hỏng hết. Chỉ còn lại hai tượng quan hầu, hai con voi, hai con ngựa bằng đá thanh ong cho khắc tạc ở Thanh Hóa đưa vào.
Tương truyền đền thờ Nguyễn Nghiễm ngày trước rất thiêng, mọi người đi qua không dám nhìn vào. Trước cổng đền hiện còn 4 chữ Hán: Hạ Mã ( xuống ngựa) và Khuynh Cải ( nghiêng nó).
Đền thờ Nguyễn Trọng
Đền thờ Lam Khê hầu Nguyễn Trọng ở thôn Thuận Mỹ. Hồi còn sống, ông đặt ruộng tế xóm sở tại và xây sẵn đền thờ. Trước đền ông cho dựng tấm bia “Tích thiện gia” (nhà giữ điều thiện) con cháu họ Nguyễn quen gọi là : “Bia gia Huấn”. Bia này do ông viết rồi sai người Tàu khắc chữ vào bia để giáo huấn con cháu. Ngoài bia đá ông còn đem từ Trung Quốc về một đôi nghê, một đôi sư tử, một đôi voi, hai tượng quan hầu tất cả bằng đá. Trong đền treo tấm biển khắc bốn chữ “Hồng sơn linh khí” (khí thiêng núi Hồng), chữ do Cao Đoàn viết. Một tấm biển lớn ghi chép các bài thơ văn đề vịnh của những bậc túc nho danh tiếng.
Đền treo đôi câu đối:
Nga nga địa vọng sơn chi Bắc
Diểm điểm thiên tài đẩu dĩ Nam
Dịch nghĩa:
Địa vị nguy nga vùng phía Bắc
Thiên tài rạng rỡ Đẩu phương Nam
Nhà thờ Nguyễn Du
Năm 1824, sau khi cải táng hài cốt về tang tại quê nhà, con cháu xây nhà thờ, lập bài vị Nguyễn Du. Nhà thờ gồm 3 gian lợp ngói, hai đầu hồi nhà có hai cột quyết, trên đắp có hai con nghê chầu nhau. Ở trong treo các bức đại từ “ Hồng Sơn thế phổ” Thiên môn tái đăng” và “Tinh sà lưỡng kiếm”. Sau năm 1930 nhà thơ dột nát hư hỏng, con cháu đưa hương án, bài vị về đền thờ Nguyễn Nghiễm. Năm 1940, Hội Khai Trí tiến đức tổ chức quyên góp trong cả nước được 420 đồng tiền Đông Dương. Giúp cho con cháu họ Nguyên xây nhà thờ, dưới sự đôn đốc của cụ Nguyễn Mai, cháu đời thứ 10 của dòng học Nguyễn Tiên Điền.
Nhà được kết cấu theo lối chữ Đinh, giữa có 4 chữ : Địa – linh- nhân – kiệt, và hai câu đối ở cột quyết. Một câu cửa nhà vua, một câu của cụ Nguyễn Mai đề tặng. Câu của vua Minh Mạng có nội dung như sau:
Nhất đại tài hoa sứ vi khanh sinh bất thiển
Bách niên sự nghiệp tại gia tại quốc tử so vin
Nghĩa là:
Một đời tài hoa, lúc đi sứ, lúc làm quan sống không hổ thẹn
Trăm năm sự nghiệp việc nhà, việc nước, chết vẫn còn vinh
Câu của cụ Nguyễn Mai:
Lễ nhạc bách niên văn hiến địa
Giang sơn tứ vọng thái bình thiên
Nghĩa là:
Trời thái bình non sông bốn mặt
Đất văn hiến lễ nhạc trăm năm
Bài vị thờ Nguyễn Du được khắc như sau:
Quý Mão khoa sinh phụng trực
Đại phu chính trị
Khanh khâm sai Bắc quốc công sứ
Lễ bộ hữu Tham tri hầu tước
Thanh Hiên Nguyễn thân sinh thân vị
Nghĩa là:
Cụ Nguyễn Du thi đậu Tú tài vào năm Quý Mão (1783)
Cụ trở thành người lớn nhân đức của triều đình
Làm quan đến chức Khâm Sai tuế công sứ sang Trung Quốc
Khi về nước được phong Lê Bộ Hữu Tham Tri hầu tước.
Hiệu là Thanh Hiên
Tháng 7 năm 1954 bị bom Pháp đánh trúng Nhà thờ chỉ còn lại một bức tường chơ vơ trên nề cũ và sót lại một ít đồ thợ tự. Sau năm 1954, nhà thờ được xây dựng lại nhưng chỉ còn lại nhà hạ điện. Từ năm 1965 lại nay được tu sửa nhiều , nhưng vẫn giữ nguyên hình dáng và kích thước như cũ.
Mộ Nguyễn Du
Năm 1820, Minh Mệnh lên ngôi vua xuống chiếu cử Nguyễn Du làm Chánh sứ đi Trung Quốc cầu phong, nhưng chưa đi làm thì mất tại Huế ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn, tức ngày 16 tháng 9 năm 1820, thọ 55 tuổi.
Sử nhà Nguyễn chép lại: “Năm ấy có nạn dịch lớn (dịch tả) từ nước ngoài tràn vào Hà Tiên rồi lan ra Bắc Thành làm cho 20 vạn người chết”.
Nguyễn Du mắc bệnh đột ngột, nhưng vẫn bình tĩnh không chịu uống thuốc. Năm trên giường cụ bảo người nhà sờ tay chân, người nhà bảo lạnh cả rồi. Cụ bảo “ được được” và lặng lẽ nhắm mắt rồi tắt thở , không trối trăng lại bất cứ điều gì, mặc dù bên cạnh có đông con cháu đang làm quan tại Huế.
Ban đầu, mộ được chọn tại cánh đồng Bàu Đá, xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đám tang cụ lặng lẽ không có nhiều người đi đưa Nhà vua Minh Mạng biết tin ban tên “Thụy” và gửi phẩm vật phúng viếng. Các quan trong triều cũng gửi phẩm vật và câu đối phúng viếng.
Bốn năm sau (1824) hài cốt của cụ được con là Nguyễn Ngũ, cháu Nguyễn Thắng làm quan tại Huế cải táng đưa về quê nhà. Lúc đầu táng tại vườn cũ sinh thời cụ sống ở thôn Thuận Mỹ, xã Tiên Điền. Những năm sau đó con cháu thất sức học ngày một giảm, không bằng ông cha mình trước đây, bèn dời đến táng cạnh đền thờ Nguyễn Trọng. Sau đó, một thời gian do yếu tố tâm linh, con cháu lại cải táng đến xứ Đồng Cùng, giữa một vùng cát rộng.
Ban đầu ngôi mộ đơn sơ, về sau có thêm tấm mộ chí do cụ Đặng Thai Mai làm bằng chữ Hán “Tiên Điền Nguyễn tiên sinh phần mộ”
Năm 1990, Sở Văn hóa Thông tin Nghệ Tĩnh, Ủy ban nhân dân huyện Nghi Xuân, xây lại phần mộ cho cụ. Từ đó, tới nay qua nhiều lần chỉnh sửa mộ cụ ngày một tôn nghiêm hơn.
Trên lối vào ngôi mộ, từ trước tới nay ghi lại nhiều dấu chân của những người yêu mến nhà thơ. Thường ngày đều có những nén hương nghi ngút khó và những bó hoa của du khách khắp mọi miền về phúng viếng.
Trước khi năm xuống cụ vẫn day dứt một điều: Không biết 300 năm nữa sau khi mất có ai hiểu và khóc cho mình không?
“Bất tri tam bách dư niên hậu.
Thiên hạ thùy nhân khấp Tố như”.
Nhưng không đến 300 năm sau, liền sau khu cụ mất hàng triệu người Việt Nam đã thổn thức vì tác phẩm Truyện Kiều. Năm 1965 Thế giới đã tổ chức kỉ niệm 200 năm năm sinh của Nguyễn Du cùng với 8 nhà văn nổi tiếng của nhân loại và công nhận ông là Danh nhân văn hóa thế giới.